Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016

Vùng trời, vùng đại dương, đáy hồ... China đều muốn choán trọn

LTS:Tuần vietnam trình bày Phần 2 tìm hiểu “Chủ nghĩa đế quốc hàng hải TQ, Luật đại dương và phán quyết của Tòa trọng tài Thế giới trong vụ Philippines kiện TQ: Góc nhìn trong khoảng LB Nga” của tấn sĩ người Nga, Pavel Gudev.

Cố công chứng minh "quyền lịch sử"

TQ cố gắng từng bước tuyên truyền tình trạng “vùng nước lịch sử” đối với tất cả Đại dương Đông. Theo quan niệm của một vài chuyên gia và chính trị gia TQ, việc cái gọi là các con phố 9 đoạn ko phải vấp phải sự phản đối nào sau khi hiện ra trên bạn dạng đồ từ năm 1947 - 2009 là chứng cớ cho thấy những vùng nước thuộc Biển Đông bên trong đường 9 đoạn có “tính lịch sử”.

Dựa vào tuyên bố “vùng nước lịch sử”, TQ tự cho mình kỹ năng mở mang vùng nội thủy và vùng biển trên các vùng nước ở Đại dương Đông một bí quyết hợp lí. Do Bắc Kinh mạnh bạo trong việc giới hạn các quốc gia khác thi hành vài loại hoạt động kinh tế hàng hải nhất thiết, có thể phán đoán rằng điều này xuất hành từ việc họ hiểu đó là “vùng nội thủy lịch sử”.

Điều này có nghĩa là chủ quyền trọn vẹn của Bắc Kinh sẽ không chỉ giới hạn trên đa số các đảo trong khuôn khổ đường 9 đoạn, mà còn trên toàn bộ khu vực hàng hải (khoảng 80% tổng quy mô Đại dương Đông, tương đương 2.8 triệu km2) và không phận bên trên, đáy đại dương cũng như lớp đất bên dưới, và toàn cục tài nguyên sinh vật lẫn không sinh vật. Cùng với những yêu sách trên thềm lục địa Nam cực và các vùng nước bao quanh, đây là yêu sách lớn nhất xét về không gian đại dương và các nguồn tài nguyên đi kèm theo đó.

Lập luận “vùng nước lịch sử” yên cầu phổ thông bằng chứng thuyết phục. Các non sông ven hồ phải đưa ra được bằng chứng về độc lập lâu đời được thực thi một phương pháp rõ ràng đối với vùng hồ liền bờ, và rằng họ có vai trò hiểm yếu trong việc đảm bảo bình yên và sản xuất kinh tế ở khu vực đó.

Kiếm được thấy phải củng cố cơ sở vật chất bằng cớ, các học giả TQ dẫn chứng những nền tảng pháp lý có tính lịch sử. Chi tiết, họ công nhận rằng hồ hết các đảo ở Đại dương Đông thậm chí chưa xác định độc lập trong suốt thời nhà Hán ở thế kỉ II TCN; sứ giả TQ ở Campuchia đã đề cập đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tham gia thế kỉ III; Biển Đông có lịch sử thuộc vùng ích lợi quốc gia của TQ trong khoảng giữa thế kỉ X và XIV; những đảo này đã xác định trên nhiều phiên bản đồ TQ trong khoảng thế kỉ XV-XIX; và sau cùng là ngư dân TQ đã có truyền thống tấn công cá ở những vùng nước này.

Dĩ nhiên, những dẫn chiếu trên cơ sở pháp lý lịch sử, dù được củng cố bởi bản đồ và tài liệu, không thể phân thành chứng cứ phổ biến cho Bắc Kinh. Nguyên nhân là các nhà nước tập quyền qua các thế kỉ, đặc biệt trong thế kỉ XIX và XX khá yếu, chẳng thể giữ vững hiệu quả các vùng nước ở Biển Đông và các đảo ở đó được.

Trong khi, cục bộ “cơ sở vật chất lịch sử” này chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với thời điểm mà mâu thuẫn và mâu thuẫn bao quanh điều Biển Đông dậy sóng. Ở đây là quá trình sau Thế chiến II, trong khoảng 1949 tới giữa thập niên 70. Dĩ nhiên, trong công đoạn này, Bắc Kinh đã không bộc lộ các yêu sách của bản thân cách công khai.

Bất cập của việc vận dụng trạng thái vùng nội thủy có tính lịch sử can dự đến sự thiếu vắng những chỉ tiêu rõ ràng nhằm xác định tình trạng đó trong Công ước về Luật hồ 1982. Các đại biểu tại Đại hội III Liên Phù hợp quốc về Luật biển không muốn kích hoạt thêm hiện trạng leo thang yêu sách đối với vùng nước lịch sử, bởi vậy trong Công ước 1982 không có chỗ nào đề cập đến những tiêu chuẩn tạo nên hạ tầng pháp lý lịch sử, cũng như dựa trên những mục tiêu nào mà các vũng/vịnh rộng hơn 24 dặm có thể được xếp là có tính lịch sử.

Rộng rãi năm sau khi UNCLOS được kí kết, các non sông thực thi mở đầu mở rộng số lượng những ngoại lệ liên quan đến vũng/vịnh, xem đây là các vùng nước lịch sử. Trước đây, yếu tố này chỉ có thể ứng dụng cho các vũng/vịnh có chiều rộng cửa vịnh tối đa là 24 dặm (hoặc nhị lần chiều rộng tối đa của hải phận), nhưng sau đó đầy đủ các yêu sách đều can hệ đến vũng/vịnh với chiều rộng cửa vịnh thường lớn hơn 24 dặm phần nhiều.

Thêm vào đó, các quyền lịch sử mở màn được đưa ra không chỉ liên quan tới vũng/vịnh, mà còn với các hồ bé xíu hơn, do đặc điểm địa lý mà rất giống vịnh. Sự mở mang ngoại lệ này là do thực tại có vài đại dương bé dại hơn vũng/vịnh đông đảo được tuyên bố là có tính lịch sử.

bien-dong TQuốc bồi lấp và quân sự hóa đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa của vietnam. Ảnh: CSIS.

Qui định quốc tế đã hiện ra 3 chỉ tiêu cơ bản cho việc xác lập quyền tài phán hợp pháp đối với vùng nước lịch sử được thừa nhận nhiều trong những vấn đề kiện sau:

- Địa điểm địa lý khác lạ của vùng nước (khác lạ phương pháp xa hành lang hàng hải quốc tế);

- Lợi ích đặc biệt về an toàn và kinh tế của tổ quốc ven đại dương (giá trị của vùng nước cũng như tài nguyên đi kèm đối với nền kinh tế của khu vực ven đại dương thuộc tổ quốc đó hay thậm chí đối với cả nước nhà đó);

- Yêu cầu chủ quan của nước nhà ven biển nhằm tìm kiếm từ các đất nước khác sự thừa nhận bằng khoán lịch sử dưới dạng công nhận ngầm (vắng lặng) độc lập thực sự của bản thân và ít phổ thông phê chuẩn việc thực thi quyền lực (hoặc độc lập) một cách thức lâu đời, liên tục và tự do (không ngăn cách).

Tính đến phần lớn các cảnh huống này, cũng như xét thấy việc xây dựng qui định hàng hải quốc tế có liên quan tới vùng nước lịch sử cốt yếu hướng tới việc phát hành tập quán thông lệ chứ không hề quy phạm hiệp ước, các nước nhà ven hồ đã ứng dụng quy nhạo báng pháp lý này đối với phổ thông vùng hàng hải khác biệt, bao gồm cả biển.

Chả hạn, theo sườn pháp lý Xô Viết, toàn bộ khu vực biển Bắc cực tiếp giáp vùng biển của nước này (đại dương Bắc Seberia, hồ Kara, đại dương Laptev, Chukchi), cũng như một số eo hồ Bắc cực đã được xem là có tính lịch sử.

Moscow lập luận rằng tuyến các con phố Biển Bắc (NSR) là tuyến liên lạc nội bộ quốc gia thuộc chủ quyền của Nga, nước có đặc quyền kiểm soát lưu thông hàng hải qua đó, khác lạ là qua các eo hồ Bắc cực thuộc Nga nơi vắt qua quần đảo Novosibirskiye và quần đảo Severnaya Zemlya.

Trong bất cứ trường phù hợp nào, điểm khác biệt cơ bản giữa yêu sách của Nga và TQ nằm ở chỗ Liên bang Xô Viết trước đây tuyên bố độc lập đối với các biển Bắc cực, vùng nước nơi sóng hồ vốn chỉ dạt tham gia bờ một nước là Liên bang Xô Viết (USSR), như là nội thủy có tính lịch sử của nước này. Dường như đó, TQ muốn dùng quy chế giễu pháp lý này để tuyên bố độc lập đối với cả Đại dương Đông nơi có rộng rãi giang sơn có đường bờ hồ, như vn, Malaysia, Philippines, Brunei…

Thực tiễn thực thi luật pháp nhân loại có những tiền lệ khi khu vực hàng hải của hơn một nước giáp biển được coi là vùng nước lịch sử hoặc các vũng/vịnh lịch sử. Trong trường hợp Đại dương Đông, tiền lệ này là hoàn toàn bất khả, trừ khi có sự đồng thuận của tất cả các non sông trong khu vực. Nhưng vị trí cần thiết của Biển Đông đối với hàng hải quốc tế cũng như các hoạt động kinh tế khác không cho phép thay đổi tình trạng pháp lý của khu vực này, nhất là khi nhân tố đó chỉ nhằm dịch vụ cho lợi ích của một nước TQ.

Phớt lờ luật pháp UNCLOS

Theo Công ước về Luật biển 1982 thì Biển Đông là đại dương nửa kì dị (semi-enclosed sea). Vấn đề 122 khái niệm loại hồ này như sau:

“Trong khuôn khổ của Công ước, “biển kì lạ và nửa kì lạ” là các vịnh đại dương, vũng/vịnh gầy hoặc hồ bao quanh bởi nhì hoặc rộng rãi giang sơn và có thông với một biển khác hoặc biển bởi một hạn hẹp hoặc bao gồm toàn bộ/phần nhiều vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế của nhị hay phổ quát tổ quốc ven hồ”.

Nhân tố 123 “Phù hợp tác giữa các quốc gia ven hồ bí hiểm hoặc nửa kì lạ” bắt buộc rằng:

“Các đất nước ven hồ độc đáo hoặc nửa rất dị nên hợp tác với nhau trong việc thực thi chủ quyền và thực hiện các trách nhiệm chiếu theo Công ước này. Để thực hiện điều này, các bên phải nỗ lực, theo phương pháp trực tiếp hoặc phê chuẩn một doanh nghiệp khu vực thích hợp trong việc:

(a) Phối phù hợp điều hành, bảo tồn, thăm dò và khai thác các nguồn khoáng sản sinh vật biển;

(b) Phối phù hợp thực hiện các quyền và bổn phận có can dự tới việc bảo vệ và bảo tàng môi trường đại dương;

(c) Phối thích hợp trong các chính sách nghiên cứu kỹ thuật và bắt đầu, khi phù hợp, các chương trình hợp tác tìm hiểu trong khu vực;

(d) Khi thích hợp, mời các tổ quốc hoặc các đơn vị quốc tế khác có niềm nở nhằm phù hợp tác với họ trong việc hoàn thành các qui định của yếu tố này”.

Trên thực tiễn, yêu sách của TQ đối với Biển Đông coi đây là nội thủy bên trong các con phố 9 đoạn đã hoàn toàn phớt lờ các quy định của Công ước 1982 trong việc phát hành phù hợp tác đa phương giữa các quốc gia trong biển kín.

Pavel Gudev, TS, Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế Primakov, Viện Hàn lâm Khoa học Nga (IMEMO)

*Bài viết lược trích nghiên cứu của Pavel Gudev. Các tiêu đề chính, tiêu đề phụ do Tuần vietnam đặt.

Trong các phần sau, tác giả bài viết sẽ phân tách chi tiết một vài că cứ pháp lý của Tòa Trọng tài Thế giới trong “vụ kiện Hồ Đông”.

. / Vietnamnet


Xem nhiều hơn: Play Boys

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét